Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 24/2021/HS-ST

0
203

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 23 tháng 09 năm 2021, tại Trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 08 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 08 năm 2021 đối với bị cáo:

Trƣơng Hoàng M. Sinh năm: 1987; Tên gọi khác: Không; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp Đông B, xã Hòa A, thành phố Cao Lãnh; Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Tài xế; Con ông: Trương Văn Đ, sinh năm: 1958; Con bà: Phan Thị V, sinh năm: 1968; Vợ tên: Đinh Thị Trâm A1, sinh năm: 1994 (Đã ly hôn); Con tên Trương Đinh Hoàng O, sinh năm 2016; Gia đình có 02 anh, em, bị cáo là con lớn nhất; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Đng Văn H, sinh năm 1970; (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Nguyễn Thị C, sinh năm 1939; Địa chỉ: Đội 5, ấp V, xã H, huyện C1, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt tại phiên tòa).

2. Huỳnh Hồng N, sinh năm 1973; Địa chỉ : ấp Bình Phú L, xã Bình Hàng T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng: Trần Thanh T1, sinh năm 1981; Địa chỉ : Ấp Hòa D, xã M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (vắ ng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Trương Hoàng M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 04/4/2021, Trương Hoàng M là tài xế điều khiển xe ô tô khách (46 chổ ngồi) biển số 51B-312.16 cho công ty Cổ phần xe khách Phương Trang FUTA Bus Lines chở khách đi từ Bến xe Cao Lãnh đến Bến xe Miền Tây thành phố Hồ Chí Minh lưu thông trên Quốc lộ 30 hướng từ thành phố Cao Lãnh đi An Hữu. Khi đến đoạn đường thuộc ấp 3, xã Bình Hàng T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp khi xe đang chạy với vận tốc cao thì M nhìn thấy phía trước có xe mô tô biển số 63S4-6858 do ông Đặng Văn H, sinh năm 1970 ngụ ấp Bình Phú L, xã Bình Hàng T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp điều khiển cùng chiều chuyển hướng từ lề phải sang lề trái không mở tín hiệu đèn cách đầu xe ô tô khách khoảng 25 mét, M không bấm còi, không đạp phanh nên phần đầu bên phải của xe ô tô khách va chạm với phần để chân bên trái của xe mô tô, làm ông Đặng Văn H và xe mô tô ngã xuống lộ, ông Hà chấn thương nặng và tử vong tại bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp lúc 17 giờ 40 phút cùng ngày.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 175/TTh-TTPY ngày 07/4/2021 kết luận nguyên nhân chết của ông Đặng Văn H là do suy hô hấp tối cấp + Shock mất máu cấp/ Tai nạn giao thông.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông hồi 16 giờ 40 phút ngày 04/4/2021 thể hiện: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn thẳng tầm nhìn không bị che khuất, tổ chức giao thông nơi đây hai chiều ở giữa mặt đường có vạch sơn phân tuyến đứt nét. Ở hai đầu đoạn đường nơi xảy ra tại nạn có biển báo giao thông đường bộ (Trẻ em, đi chậm, xe buýt). Mặt đường rộng 8 mét, đường nhựa, mặt đường bằng phẳng, không có chướng ngại vật, đường khô, không trơn trợt. Lấy lề bên trái hướng thành phố Cao Lãnh đi An Hữu làm lề chuẩn, tâm vùng va chạm cách lề chuẩn là 4.60 mét.

Qua kết quả khám nghiệm hiện trường xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn là do bị cáo Minh điều khiển xe ô tô không chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ, không chú ý quan sát (vi phạm điểm b, khoản 4 Điều 10 Luật giao thông đường bộ và điểm a khoản 7 điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt).

– Vật chứng thu giữ gồm: Xe mô tô biển số 63S-6858 và 01 giấy phép lái xe của ông Đặng Văn H. Xe ô tô khách biển số: 51B-312.16, giấy đăng ký xe ô tô khách, giấy đăng kiểm của Công ty cổ phần xe khách Phương Trang; giấy phép lái xe ô tô số: 870058008037, hạng A1 và E có giá trị đến ngày 23/01/2023 mang tên Trương Hoàng M, sinh năm 1987, nơi cư trú: Ấp Đông B, xã Hòa A, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lãnh đã trả xe mô tô biển số 63S-6858, giấy phép lái xe của ông Hà cho ông Đặng Văn T2 là đại diện hợp pháp của bị hại ông Đặng Văn H; trả xe ô tô biển số 51D-312.16, giấy đăng ký xe, giấy đăng kiểm xe ô tô cho ông Nguyễn Hoàng T3 là đại diện của Công ty cổ phần xe khách Phương Trang.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trương Hoàng M và đại diện Công ty cổ phần xe khách Phương Trang đã thỏa thuận bồi thường cho ông Đặng Văn T3 là đại diện hợp pháp cho bị hại Đặng Văn H tổng số tiền là 213.363.000 đồng (Hai trăm mười ba triệu ba trăm sáu mươi ba ngàn đồng). Trong đó Công ty cổ phần xe khách Phương Trang bồi thường số tiền là 113.363.000 đồng (Một trăm mười ba triệu ba trăm sáu mươi ba ngàn đồng) các khoản gồm: Chi phí mai táng là 93.363.000 đồng; tiền cấp dưỡng cho Đặng Văn H1, sinh ngày 14/02/2008 là con của bị hại Đặng Văn H đến 18 tuổi là 60.000.000 đồng; tổn thất tinh thần của bà Nguyễn Thị C, Huỳnh Hồng N, Đặng Minh H1 là 60.000.000 đồng. Hiện tại đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận tiền xong không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo M.

Đối với số tiền trên mà Công ty cổ phần xe khách Phương Trang đã liên đới cùng bị cáo M bồi thường. Công ty cổ phần xe khách Phương Trang cũng không yêu cầu bị cáo M hoàn trả lại số tiền này.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trương Hoàng M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo còn phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định tử thi và các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 32/CT-VKSHCL ngày 10/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Trương Hoàng M về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

– Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng M phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trương Hoàng M với mức án từ 01 năm đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 04 năm.

– Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

– Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xem xét giải quyết.

– Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh tuyên trả lại cho bị cáo Trương Hoàng M giấy phép lái xe hạng A1, E số 870058008037 mang tên Trương Hoàng M.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận, đối đáp gì. Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lãnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Cao Lãnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hà nh tố tụng. Do đó, mọi hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trương Hoàng M đã thừa nhận hành vi phạm tội được mô tả trong bản cáo trạng số 32/CT-VKSHCL ngày 10/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh là đúng với hành vi của bị cáo. Vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 04/4/2021, M điều khiển xe ô tô biển số 51D- 312.16 lưu thông trên Quốc lộ 30, theo hướng thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đi An Hữu. Khi đến Km15 thuộc ấp 3, xã Bình Hàng T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp do không chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ, không chú ý quan sát nên va qu t vào xe mô tô biển số 63S4-6858 do ông Đặng Văn H điều khiển chạy cùng chiều chuyển hướng từ lề phải sang lề trái. Hậu quả làm ông Đặng Văn H tử vong.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, biên bản hiện trường xảy ra vụ tai nạn, kết luận giám định pháp y và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử kết luận, hành vi phạm tội của bị cáo Trương Hoàng M đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo Trương Hoàng M, khi thực hiện tội phạm, bị cáo là người đã thành niên, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Bản thân bị cáo đã học tập và được cấp giấy phép lái xe theo quy định nhưng bị cáo điều khiển xe không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, cụ thể là bị cáo đã điều khiển xe thiếu quan sát, không chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống biển báo đường bộ để xảy ra va chạm khi lưu thông. Đây là nguyên nhân chính gây ra vụ tai nạn giao thông như đã nêu trên.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân khi tham gia giao thông, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Do vậy, đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra thì bị cáo đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả cho phía gia đình của người bị hại xong và được người đại diện hợp pháp của bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo; bản thân bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân nhân tốt. Mặt khác, tai nạn xảy ra cũng có một phần lỗi của người bị hại khi qua đường thiếu quan sát. Đây là những tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét thấy, bị cáo Trương Hoàng M có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính trong gia đình, có nhiều tình tiết giảm nh tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và không có tình tiết tăng nặng, đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam mà chỉ áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo. Đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động để trở thành công dân tốt và là người có ích cho gia đình, xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong, người đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với giấy phép lái xe hạng A1 và E số 870058008037 có giá trị đến ngày 23/01/2023 mang tên Trương Hoàng M là giấy tờ cá nhân của bị cáo, cần xem xét trả lại cho bị cáo.

(Hiện các vật chứng trên Chi cục thi hành án huyện Cao Lãnh đang quản lý) [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[9] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh về tội danh, khung hình phạt và các vấn đề khác là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trương Hoàng M phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trương Hoàng M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án (ngày 23/9/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Hòa A, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong nên không đặt vấn đề xem xét.

Về xử lý vật chứngÁp dụng điểm a, khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Trả lại cho bị cáo Trương Hoàng M 01 (một) giấy phép lái xe số 870058008037, hạng A1 và E có giá trị đến ngày 23/01/2023 mang tên Trương Hoàng M.

(Hiện các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh đang quản lý) Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Bị cáo Trương Hoàng M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐỖ GIA VIỆT

Giám đốc - Luật sư:  Đỗ Ngọc Anh Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Tổ 14 Phố Trạm, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội.
Điện thoại: 0944 450 105
Email: luatsudongocanh@gmail.com
Hệ thống Website:
www.luatsungocanh.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai #thuhoino
Bài trướcKhởi nghiệp: Những rắc rối thường gặp và cách giải quyết
Bài tiếp theoVì sao học sinh sinh viên không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông?